Hà Nội, thứ Ba ngày 11/12/2017.
Muốn nói thêm về bài của cụ Nguyễn Văn Vĩnh và anh Nguyễn Lân Bình:
Nói cho chính xác thì chữ Quốc ngữ thời cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã ổn định, cách viết đã giống như bây giờ, chỉ vài chữ viết chưa thống nhất, hoặc tồn tại hai chuẩn và còn “lấn cấn” một vài trường hợp. Do đó, ý kiến của cụ Vĩnh là ý kiến để “chuẩn hóa” hoặc để sáng rõ vì sao viết như vậy. Ví dụ, các đề nghị “đổi ra” (nhầm → lầm, nhỡ → lỡ,…) thực chất là chọn chuẩn. Cho đến nay, nhìn chung các trường hợp trên vẫn tồn tại hai chuẩn nhưng có sự phân công giữa ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ giao tiếp đời thường: con nhện/ con dện, lời lẽ/ nhời nhẽ,…
Cần nói rõ như vậy để thấy ý kiến cụ Vĩnh khác hẳn GS. Bùi Hiền. Cụ Vĩnh chỉ đề nghị chuẩn hóa và cũng chỉ hạn chế ở một số trường hợp. Chuẩn hóa là việc làm thường xuyên của bất cứ ngôn ngữ nào, nó không dẫn đến sự đảo lộn mà chỉ để ngôn ngữ phát triển theo hướng tích cực.
Còn đề nghị của GS. Bùi Hiền là một cuộc cải cách lớn về văn tự. Nó dẫn đến đảo lộn hoàn toàn chữ Quốc ngữ, tạo ra gần như là một chữ viết mới. Xét về mặt, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… việc đảo lộn một cái đã ổn định, không gây khó khăn nào đáng kể để đổi lấy một cái chồng chất khó khăn, thậm chí là bất khả thi hoặc phải trả giá vô cùng nặng nề, thì đó là một ý kiến điên rồ. Điều này vừa qua nhiều người đã thấy và đã nói, không cần nói thêm gì.
Có một khía cạnh thuộc về ngôn ngữ học mà một số người vừa rồi ra sức bảo vệ GS. Bùi Hiền, cho rằng, chữ QN từ lâu vẫn tồn tại nhiều bất hợp lý và đề nghị cải cách là đương nhiên và các đề xuất của GS. Bùi Hiền hoàn toàn “đúng” về mặt “khoa học”.
Đây là một sự ngộ nhận đáng lẽ cũng không cần bàn nhưng lại cần bàn. Vì sự ngộ nhận này tồn tại dai dẳng lâu nay trong giới ngôn ngữ học, ít ra có từ những năm 20 thế kỷ trước, và đặc biệt từ những năm sáu mươi đến nay, ở cả hai miền Nam Bắc. Trong hầu hết các giáo trình Việt ngữ học, các tác giả đều cho rằng chữ Quốc ngữ tồn tại nhiều “bất hợp lý”. Nếu không giải quyết được tận gốc nhận thức sai lầm này thì sẽ luôn tiềm ẩn những cuộc bùng phát các loại đề án cải cách chữ Quốc ngữ.
Khi nào có thì giờ tôi sẽ viết một bài đầy đủ về vấn đề này. Còn ở đây chỉ xin nêu luận điểm có tính nguyên lý: Chữ viết, dù là chữ ghi âm, nhìn chung, không phải là ký âm của lời nói hoặc giá trị ký âm không lớn (*). Chữ viết tự nó biểu thị cái ý nghĩa. Trong tiếng Anh, phát âm “son” và “sun” như nhau nhưng nghĩa khác nhau. Tiếng Việt, do loại hình đơn lập, lượng từ đồng âm lớn gấp bội, cho nên phân biệt trên chữ viết là vô cùng cần thiết: con cuốc/ Tổ quốc, da thịt/ gia đình, công ty/ ti trôn,…
Trong công việc chuẩn hóa, nguyên tắc là phải làm giàu, tức là làm “nhiều lên”, chứ không phải “nhập lại” như GS. Bùi Hiền. Chỗ này cụ Vĩnh rất tinh tường nên đã chủ trương hễ vùng nào còn sự phân biệt giữa các âm vị, các vần gần giống nhau là phải giữ lấy. Cụ viết: “Nay tôi đã qua đàng-trong ít lâu, đã trải những sự khó khăn trong tiếng nói người đàng trong với Đàng-ngoài rồi, thì tôi mới biết chắc rằng sự dùng chữ lẫn lộn của người xứ Bắc ta, là lầm; mà sự phân biệt của người đàng-trong, dẫu những người làm sách quốc-ngữ trước cũng có tự tiện ít nhiều, nhưng thật là phải lẽ, hợp với sự thật, vả lại làm cho tiếng An-nam giầu thêm ra được mấy âm. Tiếng ta đã hiếm tiếng, mà được thêm ra ít tiếng, cũng là thêm rõ ràng, thêm tinh-vi ra một chút”.
Sự tồn tại của các cách viết con cuốc/ Tổ quốc, da thịt/ gia đình, công ty/ ti trôn,… cho dù bất cứ lý do ban đầu là gì, khi nó được XH chấp nhận cả hai, thì ít khi vô lý, mà quy luật cơ bản là “phân công” về nghĩa. Vì vậy cách giải thích, rằng do những người Âu khi sáng chế chữ Quốc ngữ chưa hiểu tỉếng Việt hay do ảnh hưởng cách viết trong tiếng bản ngữ của họ, chỉ có thể đúng về mặt lịch sử, chứ không thể làm cơ sở để bác bỏ các “bất hợp lý” của chữ Quốc ngữ hiện nay.
ĐÀO TIẾN THI
———————————
Phúc đáp!
Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, chia sẻ của anh Đào Tiến Thi về bài viết trên báo Tuổi Trẻ ngày 28/11/2017 của tôi, kèm một trong nhiều bài giải thích của cụ Vĩnh về chữ Quốc ngữ cách đây đã hơn 100 năm!
Bình.
Thực tế, tôi rất muốn tham dự và đi đến cùng trong việc luận bàn trước không ít ý kiến, không phải chỉ của anh Thi về nhiều chi tiết liên quan đến tính hợp lý, và sự chuẩn mực trong cách viết chữ viết tiếng Việt, nhìn từ bối cảnh xã hội thời học giả Nguyễn Văn Vĩnh tồn tại, cùng những kiến thức của ông để lại qua những di cảo nối tiếp trong nhiều chục năm lao động.
Việc phải đi đến cùng, không phải do cá tính của tôi, mà đây là tính cách như một thuộc tính của nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, khi bàn về một lĩnh vực, hay về vấn đề gì đó mà ông để tâm.
Tôi chưa có cơ hội trình bày toàn bộ những gì mà Nguyễn Văn Vĩnh đã dày công theo đuổi cho đến những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời mình, bởi lẽ nó sẽ là rất dài, rất đa dạng, và vượt rất nhiều khả năng của tôi.
Đã có nhiều người làm khoa học, khi có cơ hội tiếp cận với đề tài Nguyễn Văn Vĩnh, đã từng ‘hét’ lên rằng: “Không tưởng tượng được, khó tin quá… Làm sao mà từ cả trăm năm trước, cụ đã nhận thức được một cách hệ thống nhiều lĩnh vực sâu sắc như thế chứ?!”.
Tôi mong, có một ngày, những người quan tâm đến sự nghiệp của ông, đều sẽ được không phải chỉ mãn nhãn khi đọc các di cảo của Nguyễn Văn Vĩnh, mà còn sẽ được mãn nhĩ (tôi bắt chước từ mãn nhãn) khi nghe bình luận giữa chính các quý vị, những người quan tâm trao đổi với nhau.
Xin được nêu thí dụ, bằng những loạt bài viết theo hệ thống, mà Nguyễn Văn Vĩnh đã tâm đắc và mê mải đi đến cùng…. trên những tờ báo do mình làm chủ bút:
- Các vấn đề về đời sống, về thân phận, về ái tình, về giới tính, về thể chất, về bổn nghĩa và quyền của người đàn bà…. (khoảng 50 bài).
- Các vấn đề về giáo dưỡng đạo đức, cách thức dạy dỗ con trẻ, thanh thiếu niên, cơ sở nuôi trẻ mồ côi, vai trò của người cha, của xã hội, cùng các chính sách xã hội cần có trong lĩnh vực giáo dục (khoảng 40 bài).
- Nói riêng về vấn đề sản xuất, khuyến khích người tiêu dùng, cách tính thuế, phương án vận chuyển lưu thông phân phối, và công tác bảo quản đối với nước mắm, muối, một loại thực phẩm mang tính phổ thông truyền thống đối với cuộc sống hàng ngày của người Việt (15 bài liên tục).
- Mọi vấn đề liên quan đến rượu, nguyên lý tồn tại và phát triển của ngành sản xuất rượu cồn, tác dụng hai mặt của chất men trong rượu cồn, trách nhiệm của chính quyền, của những người làm chính sách đối với rượu, khả năng đối phó với việc sản xuất rượu lậu, chính sách thuế cần có đối với mặt hàng rượu, cùng cách hành xử với những đối tượng lạm dụng việc sử dụng rượu cồn… (10 bài dài liên tục).
- Cơ cấu hoạt động của Bộ máy Nhà nước Bảo hộ, của Hội đồng Nhân dân, của các tổ chức dân sự trong hệ thống xã hội, xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh trật tự xã hội, đến việc bảo vệ những giá trị và tính mạng của người lao động…. cùng các báo cáo chuyên đề của Nguyễn Văn Vĩnh, với vai trò là thành viên của HĐ Dân biểu, và là người có chính kiến độc lập, trình bày trong các kỳ, các phiên họp bàn về yêu cầu cải cách xã hội (khoảng 100 bài).
Còn rất nhiều các lĩnh vực cụ thể mà Nguyễn Văn Vĩnh nhận thức được một cách khoa học. Ông luôn tìm đến khả năng ứng dụng những vốn hiểu biết đa dạng của mình, nhằm phục vụ cho mục tiêu xây dựng một xã hội tri thức, một xã hội bình quyền, và một giống nòi tiến bộ. Trước là đối với các thế lực cầm quyền, thứ nữa là để tìm được chỗ đứng xứng đáng cho một đất nước, một dân tộc mà trước đó, bị quốc tế nhìn nhận như một sự thiếu vắng trên bản đồ thế giới.
Luận.
Anh Đào Tiến Thi có nêu nhận định: “Nói cho chính xác thì chữ QN thời cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã ổn định, cách viết đã giống như bây giờ…”, là một điều mà tôi hơi băn khoăn và không hẳn đồng tình. Vâng, cái khái niệm ổn định trong trường hợp này, theo tôi chỉ là sự khái quát. Bởi lẽ, lịch sử đã liệt kê rất nhiều những gương mặt là nhân sĩ, là những nhân vật hoạt động chính trị từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã ra sức chống lại việc phổ biến chữ quốc ngữ. Họ muốn bám víu vào nền giáo dục khoa cử, cơ sở đã tạo ra vị trí xã hội mà họ đang nắm giữ, môi trường giúp họ đứng ở đẳng cấp trên của xã hội, có nguồn gốc nhờ ở nền tảng Nho học.
“Ngay cả khi không thể dùng chữ Hán để ghi văn bản của người Việt thì họ thà dùng chữ Nôm còn hơn dùng chữ Quốc ngữ. Năm 1867, Nguyễn Trường Tộ chính thức đề nghị triều đình Huế sử dụng chữ Nôm” (Hành trình chữ Quốc ngữ… Một Thế giới 6/12/2017 – T/g. Anh Tú).
Ngày ấy, họ đã bài bác chữ quốc ngữ vì cho rằng, nó không thể trở thành ngôn ngữ văn học, nó thiếu khả năng chuyển tải sự sâu sắc của tâm hồn và tính triết lý của ý thức con người. Đây là nguyên nhân làm cho việc quảng bá chữ quốc ngữ một cách rộng rãi trở nên khó khăn. Vì thiếu tính phổ thông, thứ chữ viết này đã không được cọ sát, không được xã hội chăm sóc, mặc nhiên trở thành rào cản cho việc hoàn thiện một thứ chữ viết lăm le tìm chỗ đứng cho mình.
Rõ ràng, đó là thời điểm khốc liệt trong tiến trình cạnh tranh của chữ viết tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Ngày ấy, tính ổn định của thứ chữ viết này chưa rõ, nhất là khi nó chưa được trình diễn một cách phổ cập trên các sản phẩm in ấn. Đó là chưa nói đến tính đồng nhất, sự khập khễnh trong việc tiếp thu đối với người dân ở mỗi miền đất nước. Một mặt trận quá gian nan cho bất kỳ ai muốn can dự.
Thậm chí, đến tận nửa cuối của thế kỷ 20, giáo sư Nguyễn Văn Trung, tốt nghiệp tại Mẫu quốc, giảng dạy ở một trường ĐH tại Sài Gòn, vẫn đang tâm viết về tiếng Việt trong cuốn “Chữ, văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc” đã lập luận:
“Chữ Quốc ngữ chỉ ghi âm, không ghi ý, không thể dùng để diễn tả văn chương được. Theo Bonifacy (đăng trong Revue Indochinoise in năm 1905 trang 206) người Việt chỉ biết chữ Quốc ngữ cũng tựa người Pháp chỉ biết chữ tốc ký Duployé và không thể đọc được ngay cả truyện Cổ tích Perrault. Do đó, cần giữ lại nền học vấn cũ bằng chữ Nho.” (NXB Nam Sơn – Sài Gòn ấn hành năm 1974, trang 69).
Nguyễn Văn Vĩnh bắt đầu dấn thân vào con đường chữ nghĩa khi mới 20 tuổi, mới càng thấy kinh hãi trước những sự uy hiếp thường trực nằm ở khắp mọi ngóc ngách trong cuộc sống của ông. Nhưng có lẽ, chính những cản trở đó, lại là động lực để ông vận động hết mình, phát huy tối đa những kiến thức và sự hiểu biết phong phú về khoa học, văn hóa, triết học nhờ biệt tài thấm sâu Pháp ngữ, cùng tư tưởng canh tân (Tân Nam Tử), thực tâm với các đồng môn, hướng đến việc vừa phổ biến, vừa ‘cải tạo’ từng bước, chứng minh cái hay, cái đẹp của cái chữ viết non trẻ từng bị hắt hủi, biến nó thành báu vật của người dân An Nam.
Cần phải nhấn mạnh, khi Nguyễn Văn Vĩnh nhảy vào cái võ đài văn hóa, tìm đường xây dựng nền văn hóa chữ Quốc ngữ, ông đã hiểu tiếng Pháp sâu sắc hơn tiếng Việt ở mức khác thường. Bằng chứng, là Nguyễn Văn Vĩnh đã đọc hai cuốn sách kinh điển của người Pháp in năm 1889 với đầu đề “Manuel de conversation Franco – Tonkinois” (Sách dẫn đàng nói truyện bằng tiếng Phalangsa và tiếng Annam), và cuốn: “ Éléments de Grammaire Annamite” (Những yếu tố văn phạm tiếng Annam).
Thực ra, điều này không lạ, bởi ông và những thế hệ cùng thời, có được ai dạy cái thứ chữ viết được La Tinh hóa này? Thế hệ Nguyễn Văn Vĩnh, khi mở mắt ra còn phải lựa xem mình vâng, dạ bằng tiếng Hán, hay bằng tiếng Pháp khi bước chân đến công đường, nếu có việc.
Tôi tin rằng, nhờ những vốn kiến thức này, cộng với tinh thần quốc xỉ, lòng húy tâm văn hóa, những yếu tố có sẵn trong huyết quản của ông, cùng với cái duyên kiếp, nên ông đã làm tất cả những gì có thể, để dẫn dắt công chúng đi theo cái lý tưởng độc lập về văn hóa, bắt đầu từ con chữ.
Nguyễn Văn Vĩnh từng thấm thía cái dang dở, cái cay đắng của các bậc đàn anh đi trước như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của… trên con đường phát triển ngôn ngữ, xuất bản, báo chí, văn hóa, và ông đã từng bày tỏ nỗi luyến tiếc tài năng của các bậc đàn anh trong rất nhiều bài viết từng đăng trên các báo do mình là chủ bút.
Năm 1932, để chấn an dư luận trong việc tranh cãi về cách viết chính tả đối với chữ Quốc ngữ, Nguyễn Văn Vĩnh đã xác định trong bài viết dài ra ngày 25/9 số 173 của báo tiếng Pháp L’Annam Nouveau – Nước Nam Mới như sau:
“Kết luận, đây là những công việc không thể phủ nhận, và nên tuân theo các quy định về chính tả được tạo thành từ Génibrel, Paulus Của và Pétrus Ký, để tất cả những ai viết văn An Nam trên toàn cõi Đông dương, giúp để hiểu được mình, và nếu như coi nhẹ các quy định chính tả, chẳng qua là do cố tình áp đặt một cách tùy tiện mà thôi”.
Đến năm 1935, một lần nữa, Nguyễn Văn Vĩnh phải nhắc lại những thành tựu của các bậc tiền nhân khi xã hội lại cộm lên những tranh cãi về việc viết chính tả đối với chữ Quốc ngữ. Nguyễn Văn Vĩnh cho rằng những người kế tục đã biết coi trọng những chỉ dẫn đã được xác lập bởi những người đi trước, và ông xác định:
“Sự tiến bộ hơn hẳn của các tác giả hiện nay nếu đem so với những bậc tiền bối, nhờ họ – những người đã khuất, đã để lại nhiều tài liệu vô cùng giá trị, và với nội dung không phải bàn cãi về phương diện viết chữ tiếng Việt như: cố đạo R.P.Génibrel, Pétrus Ký, Paulus Của”.
( Chính tả trong chữ Quốc ngữ – L’orthographe du Quoc – ngu)
L’Annam Nouveau, số 465 ra ngày 28/7/1935.
Nguyễn Văn Vĩnh đã làm được nhiều điều, vì ông không bị ràng buộc bởi quan trường, bởi danh vọng, ông không để bị chi phối (hạn chế đến mức thấp nhất) bởi hệ thống chính trị. Nhờ đó, ông đã đẩy việc dùng chữ viết tiếng Việt được La Tinh hóa lên thành phong trào, rồi từ phong trào trở thành cao trào, và biến cao trào thành một cuộc cách mạng (1913 – 1924)!
Khó để bàn dài nữa về đề tài này, thực ra là để các bạn kiên nhẫn, chờ đợi sự ra đời của cuốn sách thứ ba (trong bộ sách dự kiến 14 tập Lời Người Man di hiện đại của Nguyễn Văn Vĩnh) có tên là “Người yêu tiếng Việt trọn đời”, sẽ được NXB Tri Thức phát hành vào quý Một năm 2018. Tôi tin, nhất định các quý vị và các bạn sẽ được thỏa mãn những thắc mắc về một người Nhà quê Nguyễn Văn Vĩnh, chí ít là trong lĩnh vực tiếng Việt, đã dám tự nhận mình là kẻ Man di hiện đại như thế nào?
Một lần nữa chân thành cảm ơn anh Đào Tiến Thi, cảm ơn các quý vị và các bạn đã để tâm đến đề tài Nguyễn Văn Vĩnh.
Trân trọng!
NGUYỄN LÂN BÌNH.
One Response
“Thói quen mạnh hơn mọi luật lệ ” hình như người xưa đã dạy .Chữ Việt đã ăn sâu vào tiềm thức chúng ta cả 100 năm rồi.Người Việt đã chấp nhận ,Các bậc tiền nhân đã lao tâm khổ tứ mới có chữ riêng cho người Việt .Đây không phải trò may rủi .