ĐỊA BẠ TỪNG PHẦN VÀ TÍN DỤNG CHO NÔNG NGHIỆP
Báo L’Annam Nouveau – Nước Nam mới, số 76 năm 1931.
Đây không phải là một sự chỉ trích mà là một nghiên cứu vô tư nhằm mục đích giúp cho Chính quyền biết, cách người nông dân chúng tôi nhìn nhận tổng quát những phương pháp khoa học và cơ sở pháp lý áp dụng cho việc xác định sự sở hữu ruộng đất như thế nào.
Đồng bào chúng tôi kêu gào đòi được vay vốn làm nông nghiệp. Vậy mà tín dụng nông nghiệp chỉ có thể được chấp thuận nếu đất và ruộng có hồ sơ đăng ký hộ tịch.
Địa bạ chung đã được xác định, nó được tiến hành theo cách lập những sơ đồ từng phần. Vì thiếu nhân viên kỹ thuật để làm công việc này được khẩn trương, nhanh chóng, Thanh tra Sở Địa Bạ, ngài Bouchet, bấy giờ là Công sứ Pháp tại Hà Nội, đã có sáng kiến dạy cho người An Nam một phương pháp đơn giản để tự mình dựng sơ đồ ruộng đất của mình chỉ bằng một tấm ván nhỏ dựng đứng, một chiếc thước kẻ học sinh, một cây bút chì và mấy cái ghim băng dùng làm cột ngắm trên tấm ván để xác định các góc, thực địa thì đánh dấu bằng những cột mốc và đo lần lượt theo dây chuyền.
Cách thức này được hiểu khá kỹ càng và nhiều làng ở tỉnh Hải Dương đã có thể tự mình làm sơ đồ từng mảnh cho phần diện tích đất đai của mình với một độ chính xác toán học không cao lắm, song chí ít cũng hơn các bản đồ vẽ dưới thời Gia Long mà chúng tôi có dịp được xem xét qua một số trường hợp.
Sau này, ngài Hoàng Trọng Phu đã được giao cho việc tổ chức và phát động việc áp dụng đại trà phương pháp này ở tỉnh Hà Đông. Các nhân viên thư ký đã làm việc dưới sự chỉ đạo của các kỹ sư thuộc Sở Địa chính; những người kỹ sư đó đã dốc tâm sức vào công việc này với tất cả sự kiên nhẫn và mềm mỏng cần thiết, chấp nhận những người đo đạc thực địa bất đắc dĩ, chấp nhận sự miễn cưỡng của các chủ đất có liên quan. Như vậy rồi cũng có được sơ đồ từng phần của hầu hết các địa phương.
Người ta cũng đã cố gắng tiến hành như vậy ở một số tỉnh khác thuộc vùng châu thổ với ít nhiều thành công, tuỳ theo sự tham gia tích cực của các vị quan chức các cấp.
Than ôi! thay vì đón nhận sư canh tân này như một bước tiến bộ, các làng đã coi nó như một gánh nặng và vô ích đối với họ. Tuy nhiên, người ta cũng đã thận trọng lập một bảng thanh toán tiền công ít ỏi và gạt bỏ những ý niệm khắt khe về việc tạo dựng bản sơ đồ này. mà người ta chỉ muốn giúp những chủ đất liên quan một cách hữu ích, làm sao để nhận biết những mảnh ruộng rải rác thuộc sở hữu của mình trong vùng đồng bằng rộng mênh mông, đồng thời có được cho chúng tính chính danh rõ ràng, hơn những mẩu giấy lem nhem với những câu chữ đa phần đều không đọc được, rồi cuộn lại cất trong các ống tre, khi cần tra tìm vô cùng vất vả.
Đám dân làng chúng tôi tỏ ra không quan tâm và sự vô tâm ấy còn vượt khỏi trí tưởng tượng của tất cả. Được giải thích, kêu gọi việc chỉ rõ giới hạn phần sở hữu của mình, họ cũng không động chân động tay, để mặc cho lý trưởng hoặc một kỳ mục nào đó chỉ bảo những gì các vị đó muốn cho những người thực hiện việc đo đạc. Nhóm này muốn làm nhanh, cứ ghi tuốt những điều được chỉ dẫn vào sổ mà khỏi cần điều tra gì cả.
Vậy thì làm sao thực hiện được khi mà chính những người liên quan né tránh, không phải vì họ sợ, mà vì họ thấy công việc này chẳng đem đến lợi ích thiết thực nào. Tha hồ dọa dẫm họ về nhưng hậu quả có hại có thể xẩy ra do những chỉ dẫn sai trái, họ vẫn không động đậy, rồi còn tự nhủ rằng: đâu mà chẳng có sai lầm, đến nỗi sai lầm không thể trở nên đối lập với cái quyền tuyệt đối của họ mà nó đã sống yên ổn theo cách truyền thống, hoặc bằng những bằng chứng thành văn, hoặc bằng những bằng chứng thông qua chứng tá, dù phải không ngừng kiện tụng lẫn nhau mỗi khi làm phiền người hàng xóm chỉ vì một bờ ruộng dốc hay một cái hố vớ vẩn.
Sự thật là trong mọi tranh chấp giữa những người nông dân, động cơ duy nhất là do thiếu thiện ý. Khi hai người nông dân cãi cọ nhau vì một mẩu đất, đó chỉ là cái cớ để gây sự phiền nhiễu cho cuộc sống của nhau, chứ cả hai đều biết quyền của mình đến đâu và mình sai ở chỗ nào.
Sự sở hữu các thửa ruộng được xác lập đa số là do truyền thống, do sự công nhận ngầm của những người có diện tích tiếp giáp ở liền kề, hoặc do sự chiếm giữ từ nhiều đời liên tiếp, hơn là bởi danh nghĩa vốn chỉ là những chuẩn mực đơn giản. Những chỉ dẫn về diện tích và bờ bao ở đây nhiều khi chỉ mang tính mô phỏng, thành thử khi quy chiếu những điều đó với thiện ý, người ta biết rành rẽ vấn đề là ở đâu.
Ở một số làng, danh nghĩa sở hữu hoàn toàn không có, các trao đổi đều bằng miệng hoặc đơn giản là việc khai báo với các vị giới chức của xã. Khi bà con sống với nhau thuận hoà, những xung đột hiếm hoi đều được hóa giải dễ dàng, êm đẹp, đôi khi chỉ bởi những người hàng xóm có uy tín với cả đôi bên.
Trong những bối cảnh như vậy, làm thế nào để các chủ sở hữu nhỏ đó được hưởng lợi nhờ những chính sách của cơ quan tín dụng được thiết lập nhằm phục vụ họ?! Vậy là, chỉ có những chủ sở hữu lớn là được lợi, mà họ thường cũng chẳng cần những cơ quan và chính sách tín dụng đó. Khi có việc tình cờ, những chủ đất đó có thể chứng minh quyền sở hữu của mình đối với những diện tích ruộng đất rộng lớn, họ chỉ cần vui vẻ đem những chữ ký và những vật thế chấp của họ sở hữu cho những kỳ hào mượn, những vị này muốn vay ngân hàng cấp tỉnh nhưng chính họ lại ít khi biết đến những quyền lợi mà nhờ việc sở hữu danh chính và hồ sơ địa bạ hợp lệ có thể đem lại cho họ.
Ở một khía cạnh khác cần phải tính đến, đó là, chỉ những người chủ các mảnh ruộng rất nhỏ mới tự tay mình trồng cấy, canh tác trên mảnh đất của mình. Những chủ đất lớn thường cho thuê ruộng hoặc cho cấy rẽ. Như vậy, không phải họ (chủ đất. ND), mà chính những người thuê ruộng để canh tác hoặc những người là tá điền mới cần tín dụng!
Ở trong một làng, khi một người lao động có việc cần tiền, mọi người ai nấy đều biết và hiểu hoàn cảnh của người đó thì nhu cầu đó được coi là thành thật, qua đó, người cho vay khôn ngoan lấy đó làm cơ sở để chủ động một cách có ý thức, kể cả việc ngỏ lời trước, vì họ biết người cần mượn tiền để canh tác, bao giờ cũng sẽ trả.
Người nông dân An Nam thế chấp ruộng của mình một cách nhẹ dạ đến kỳ lạ, bởi vì anh ta biết các chủ nợ vốn là người ngoài làng, chẳng thể làm gì trên những mảnh ruộng nhỏ bé mà chỉ có anh ta mới biết cách làm cho nó sinh sản.
Đấy, những dữ liệu của vấn đề tín dụng trong nông nghiệp là thế, mà tôi không có tham vọng để giải quyết. Bởi lẽ như ta thấy, nó gắn liền với một vấn đề phức tạp và đa dạng hơn nhiều: đó là vấn đề cần thay đổi hệ thống khai thác sử dụng đất đai nông nghiệp của chúng ta.
Tuy nhiên, rõ ràng và dường như chúng ta có thể thực hiện một cái gì đó để những người lĩnh canh, những người đi thuê ruộng, những người là tá điền có thể làm được một chút gì đó cho chính họ, thay vì suốt đời họ chỉ là những nô lệ khốn khổ của những kẻ cho vay giàu có.
Việc tổ chức để thực hiện cần nhằm tới phải xuất phát từ cơ sở là xã, chứ không phải từ một Hội đồng hành chính không thể nhìn thấy gì khác hơn những điều mà bản thân các chủ nhà băng châu Âu đã nhìn thấy.
Nguyễn Văn Vĩnh
Người dịch: Dương Tường.
Nông dân gặt lúa
Cadastre parcellaire et Crédit agricole
L’Annam Nouveau No 76 . 1931
NGUYEN-VAN-VINH
Ceci n’est pas une critique mais une étude impartiale ayant pour but de renseigner l’Administration sur la façon dont nos paysans considèrent en général toutes les méthodes scientifiques et juridiques appliquées à l’identification de la propriété.
Nos compatriotes réclament à cors et à cris du crédit pour l’agriculture. Or, le crédit n’est possible que si les terres et les rizières ont leur état-civil.
Le cadastre général étant fait, il a été procédé à l’établissement des plans parcellaires. Comme le personnel technique manque pour mener rapidement ce travail, M. l’Inspecteur du S. C. Bouchet, alors Résident de France à Haiduong, avait conçu l’idée d’apprendre aux Annamites une méthode simple pour lever eux-mêmes le plan de leurs rizières, au moyen d’une simple planchette, montée sur pieds, d’une règle d’écolier, d’un crayon et de quelques épingles servant de mires sur la planchette, pour la détermination des angles, le terrain étant repéré par des jalons et mesuré à la chaîne. Le procédé a été parfaitement compris et des villages de Haiduong ont pu faire eux mêmes le plan parcellaire de leur territoire avec une précision peu mathématique mais au moins supérieure à celle des cartes dressées sous Gia-long dont nous avons pu examiner quelques exemplaires.
Enfin, il a été donné à S. E. Hoang trong Phu d’être l’organisateur et l’animateur de l’application généralisée de la méthode, dans Hadong. Les thư-kí arpenteurs ont travaillé sous la direction des ingénieurs du Cadastre qui se sont dévoués à cette œuvre avec toute la souplesse requise, prenant les géomètres improvisés comme ils sont, et la mauvaise volonté des propriétaires intéressés comme elle est. On est arrivé ainsi à avoir les plans parcellaires de presque toute la province.
La même tentative a été faite dans d’autres provinces du delta avec plus ou moins de succès, suivant l’ardeur que les mandarins ont bien voulu y mettre.
Les villages au lieu d’accueillir cette innovation comme un progrès, n’y voient hélas! qu’une charge nouvelle pour eux inutile. On a eu soin cependant d’établir un tarif de rémunération dérisoire et d’écarter toute idée inquisitoriale de ce lever de plans, qu’on a voulu uniquement profitable aux propriétaires intéressés, pour reconnaître leurs rizières disséminées dans la vaste plaine et pour en obtenir des titres autrement plus précis que les bouts de torchons barbouillés de caractères illisibles pour la plupart, qu’ils conservent enroulés dans des tubes de bambou et dont la consultation est si pénible.
L’insouciance que montrent nos villageois dépasse toute imagination. Appelés à montrer les limites de leur propriété, la plupart ne se sont pas dérangés, laissant au lý-trưởng ou à un notable quelconque montrer ce qu’ils veulent aux arpenteurs, qui, pour aller vite, inscrivent sur les registres les indications qui leur sont données sans les vérifier. Comment le faire d’ailleurs si les intéressés eux-mêmes se dérobent, non pas par crainte, mais par paresse et insouciance, n’attachant aucune utilité pratique à ce travail? On a beau les menacer des conséquences les plus préjudiciables pour eux, pouvant résulter de fausses indications, ils ne bougent pas, se disant en eux-mêmes que les erreurs sont si générales qu’elles ne peuvent être opposées à leur droit absolu établi à la manière traditionnelle, soit par preuves écrites soit par preuves testimoniales, quittes à se faire des procès interminables quand l’envie leur prend d’ennuyer le voisin pour un talus ou un fossé. La vérité est que dans toute contestation entre paysans, la mauvaise foi des parties est le seul mobile. Quand deux paysans se chicanent pour un bout de terrain, c’est pour occasionner l’un à l’autre des ennuis, mais ils savent tous deux où est leur droit et où est leur tort.
La propriété s’établit beaucoup plus par tradition, par la reconnaissance tacite des riverains, par la continuité de l’occupation, que par les titres qui sont de simples repères. Les indications de surfaces et de bornages y sont souvent si approximatives qu’on sait à quoi s’en tenir quand on s’y réfère de bonne foi. Dans certains villages, les titres de propriété sont totalement absents et les échanges se font verbalement ou par simple déclaration aux autorités communales. Quand les concitoyens vivent ensemble en bonne harmonie, ils ne sont pas à un talus près, et les rares conflits sont réglés à l’amiable, quelquefois par des voisins dont l’attestation s’impose aux parties.
Comment, dans ces conditions, faire profiter les petits propriétaires des organismes de crédit institués à leur intention ? Les seuls gros propriétaires peuvent en bénéficier et ils n’en ont pas besoin généralement. Quand le hasard fait que des propriétaires peuvent justifier de leur droit sur de grandes surfaces, ils prêtent complaisamment leurs signatures et les gages qu’ils possèdent à des notables qui veulent emprunter aux banques provinciales, mais ils usent rarement eux-mêmes des facilités que leur donne la possession de titres et de plans en règle.
Il y a un autre fait dont il faut tenir compte, c’est que seuls les tout petits propriétaires cultivent eux-mêmes leurs terres. Les gros propriétaires louent leurs rizières ou les donnent en métayage. Ce ne sont pas eux qui ont besoin de crédit, mais leurs locataires et leurs métayers.
Dans le village, la sincérité des besoins du travailleur s’établit par la notoriété publique et le prêteur avisé se base sur elle pour faire ses avances à bon escient, car l’emprunteur qui travaille avec l’argent qu’on lui prête le rembourse toujours.
Le paysan annamite donne sa rizière en gage avec une légèreté inouïe, parce qu’il sait que le créancier étranger au village ne peut rien sur sa terre, que lui seul sait travailler et faire produire, quand elle n’est pas grande.
Voilà les données du problème du crédit agricole, que je n’ai pas la prétention de résoudre. Il est lié, on le voit, à un problème beaucoup plus complexe, celui de la transformation de notre système d’exploitation du sol.
Il semble cependant que quelque chose soit possible pour permettre aux fermiers, locataires, métayers et petits propriétaires de travailler un peu pour eux, au lieu d’être toujours le malheureux esclave du riche prêteur.
L’organisation à envisager doit partir de la commune et non d’un conseil d’administration qui ne peut voir autrement les choses que comme les voient les banquiers européens eux-mêmes.
Retranscrit par PASCAL DELOHEN